
W.Minh Tuấn
Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã gặp rất nhiều khó khăn.
Sau ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 đó, thế giới khi đó chưa có nước nào công nhận Việt Nam. Ngay cả Liên Xô cũng chưa công nhận Việt Nam, mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập là có sự chỉ đạo của Liên Xô.
Ngày 14 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện cho Stalin, lãnh tụ Cộng sản Liên Xô, đề nghị Liên Xô công nhận nước Việt Nam ta. Nhưng Stalin không trả lời. Mà ông Stalin thì đâu có lạ gì Cụ Hồ, vì Cụ Hồ đã học và làm việc cho Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô 5 năm.
Hơn 1 tháng sau, ngày 18 tháng 2 năm 1946, Cụ Hồ lại gửi Công hàm cho Chính phủ Liên Xô, đề nghị công nhận nước Việt Nam độc lập.
Cùng khi đó, Cụ Hồ cũng gửi điện và Công hàm cho Chính phủ Mỹ, và cho Chính phủ Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch, cũng với đề nghị xin hãy công nhận nước Việt Nam độc lập.
Nhưng tất cả các đề nghị đó đều không nhận được trả lời.
Trong nước, các đảng đối lập tìm cách đánh phá. Bên ngoài, quân đội Pháp và Tưởng Giới Thạch cũng rình rập, chờ thời cơ để lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh non trẻ.
Khi đó, quân đội Tưởng Giới Thạch, gồm 200.000 quân, vào Việt Nam theo Nghị quyết của lực lượng Đồng Minh để giải giáp quân đội Nhật. Quân Tưởng Giới Thạch lợi dụng Nghị quyết này, đã vào Việt Nam để kiếm tiền, cướp phá tài sản của nhân dân Việt Nam.
Khi đó, người Việt Nam ta đã làm câu vè để chế riễu quân đội Tàu Tưởng:
“Đoàn quân Tàu Ô đi,
Sao mà ốm thế”.
Lực lượng Việt Minh của Cụ Hồ khi đó chỉ có vài nghìn người, vũ khí thô sơ, nếu đánh nhau với quân Tầu Tưởng, hay với quân Pháp, thì sẽ chắc chắn sẽ thất bại.
Cụ Hồ đã lựa chọn dựa vào người Pháp để giữ chính quyền, và xây dựng đất nước.
Vì sao người Pháp đã đô hộ nước Việt Nam ta gần 100 năm rồi, nhân dân ta đã vô cùng chán ghét người Pháp-khi đó- mà Cụ Hồ lại quyết định dựa vào người Pháp?
Bởi vì cái bài học lịch sử 1000 năm giặc Tàu đô hộ dân ta còn sờ sờ ra đấy, nên sự lựa chọn khôn ngoan là giữa quân Tàu tưởng và quân Pháp, thì thà dựa vào người Pháp còn tốt hơn. Bởi vì người Pháp văn minh hơn Tàu Tưởng, hiện đại hơn, phát triển hơn, dù cũng độc ác với dân Việt Nam ta, nhưng chắc chắn là tốt hơn Tàu Tưởng nhiều.
Hiệp định Sơ bộ ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946.
Ngày 16 tháng 2 năm 1946, Cụ Hồ cùng ông Hoàng Minh Giám đã bí mật gặp tướng Sainteny của Pháp tại Hà Nội, và đồng ý rằng một nước Việt Nam độc lập, nằm trong Khối Liên hiệp Pháp.
Và đến chiều ngày mồng 6 tháng 3, tại căn nhà số 38 phố Lý Thái Tổ-Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng ông Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên Hội, (mà Cụ Hồ là Chủ tịch) đã ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp tại Hà Nội.
Phía Pháp ký là ông Sainteny, người có nhiều thiện cảm với Việt Minh, và với Cụ Hồ Chí Minh.
Đây là Hiệp định mà Việt Nam có nhiều nhượng bộ với Pháp, vì Cụ Hồ Chí Minh chưa đặt ra vấn đề giành độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, mà chỉ nêu “nước Việt Nam tự do”.
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ này, Cụ Hồ chịu khá nhiều áp lực từ ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, và từ các tầng lớp nhân dân, các đảng đối lập.
Người ta phê phán rằng Cụ Hồ bán nước cho Pháp.
Nhưng có thể nói, khi đó, chỉ Cụ Hồ và một số người thân cận như Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám,,,mới hiểu được rõ sự vận động của đất nước khi đó, mới hiểu rõ tình hình đất nước ngàn cân treo sợi tóc khi đó.
Nếu không ký Hiệp định này, thì có thể Chính phủ Việt Minh đã bị quân Tàu Tưởng, và quân Pháp hợp tác tiêu diệt. Và làm sao mà nước Việt Nam non trẻ khi đó, năm 1945, có thể cùng một lúc chống lại được 2 kẻ thù hùng mạnh, 2 chọi 1?
Cụ Hồ đã nói rõ mục đích của Cụ Hồ khi ký Hiệp định Sơ bộ này, trong cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”, ký tên tác giả Trần Dân Tiên-là bút danh của chính Cụ Hồ, như sau:
“Hồ Chủ Tịch và Chính phủ ta không muốn chiến tranh, chỉ muốn Tổ quốc được độc lập và thống nhất, muốn hòa bình để tránh cho nhân dân khỏi khổ, và xây dựng lại đất nước Việt Nam nghèo nàn,,,”.
Sau đó, hai bên Việt Nam và Pháp lại gặp nhau ở Đà Lạt, từ ngày 19 tháng 4, đến ngày 11 tháng 5 năm 1946, do ông Võ Nguyên Giáp cầm đầu-nhưng danh nghĩa là ông Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao của Chính phủ Cụ Hồ khi đó.
Mục đích của Hội nghị Đà Lạt là để thảo luận về các chi tiết thực hiện Hiệp định Sơ bộ. Cụ Hoàng Xuân Hãn, một trong những thành viên tham gia Hội nghị Đà Lạt, đã có bài viết Hồi ký rất hay về hội nghị này: “Một vài kỹ vãng về Hội nghị Đà Lạt”.
Hội nghị Đà Lạt đã không có kết quả, vì phía Pháp không muốn trao trả cho Việt Nam 6 tỉnh Nam Bộ, vì cho đó là lãnh thổ của Pháp rồi, và không muốn Việt Nam có nền ngoại giao riêng.
Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946.
Hội nghị Đà Lạt tuy không đạt được thỏa thuận gì, nhưng cũng thống nhất được rằng phía Pháp mời một phái đoàn Việt Nam sang Pháp để tiếp tục đàm phán.
Chính phủ Pháp cũng mời Cụ Hồ Chí Minh sang Pháp với tư cách là thượng khách, không tham gia phái đoàn đàm phán.
Ngày 31 tháng 5, Cụ Hồ Chí Minh, và phái đoàn Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, lên đường sang Pháp.
Chính phủ Pháp đã đón tiếp Cụ Hồ xứng đáng với một vị nguyên thủ quốc gia. Trong cuốn hồi ký ký tên Trần Dân Tiên nêu trên, Cụ Hồ thể hiện lòng tự hào của mình khi được đón tiếp long trọng tại Pháp năm 1946, vì trước đó 35 năm, vào năm 1911, Cụ Hồ sang Pháp chỉ là anh phụ bếp trên chiếc tàu vận tải.
Cụ Hồ viết trong cuốn hồi ký “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” này như sau:
“Cách đây 30 năm, Chủ tịch đi Pháp làm phụ bếp trên một chiếc tàu buôn. Ngày nay Chủ tịch đi trên một chiếc tàu chiến, là thượng khách của nước Pháp.”
Cái đoạn văn đơn giản này thể hiện lòng tự hào vô bờ bến của Cụ Hồ, khi Cụ Hồ đưa ra 2 sự so sánh này, anh phụ bếp cách đây hơn 30 năm, và vị Nguyên thủ Quốc gia hơn 30 năm sau.
Hội nghị Việt-Pháp ở Fontainebleau do ông Phạm Văn Đồng cầm đầu cũng đã thất bại, lý do cũng giống Hội nghị Đà Lạt, là phía Pháp không muốn thảo luận vấn đề 6 tỉnh Nam Bộ, và phía Việt Nam của Cụ Hồ thì không hề nhượng bộ vấn đề này.
Và để gây áp lực với Chính phủ Việt Minh, phía Pháp gây hấn ở nhiều nơi trên khắp Việt Nam.
Nhưng cụ Hồ không muốn về Việt Nam tay không, sau hơn 4 tháng ở Pháp, nên đêm ngày 14 tháng 9, năm 1946, khi sắp rạng sáng ngày 15 tháng 9, Cụ Hồ ký với Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Muotet Tạm ước (Modus Vivendi) Việt-Pháp.
Tạm ước này gồm 11 khoản, thể hiện nhiều sự nhân nhược của Việt Nam đối với Pháp, Kiều dân Việt ở Pháp, và kiều dân Pháp ở Việt đều hưởng các quyền tự do như nhau, như tự do cư trú, tự do tư tưởng, tự do dạy học, tự do buôn bán, đi lại, nói chung tất cả các quyền tự do dân chủ. Người Pháp được hưởng các quyền ưu tiên về kinh tế, văn hóa tại Việt Nam.
Tạm ước cũng qui định về thống nhất thuế quan giữa 3 nước Đông dương.
Việt Nam chưa nêu vấn đề đòi độc lập về chính trị và lãnh thổ, quyền độc lập về ngoại giao cũng chưa được nêu ra.
Điểm quan trọng nhất của Tạm ước này là nêu vấn đề ngừng bắn, chấm dứt mọi xung đột, mọi sự tuyên truyền nói xấu nhau, và chấm dứt mọi hành động trả thù nhau từ hai phía.
Điều 10 của Tạm ước này qui định hai bên Việt Nam và Pháp sẽ lại gặp nhau lại vào tháng 1 năm 1947, để thảo luận tiếp về các ý kiến khác biệt.
Khi ký Tạm ước với Cụ Hồ, ông Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải Ngoại Muotet nói như sau với Cụ Hồ:
“Tôi hiểu rằng khi ông trở lại Việt Nam, ông sẽ thấy nhiều phần tử oán trách ông là ông không đạt được tất cả mọi sự. Tôi không chống đối ý muốn độc lập của quốc gia ông.
Tôi không chống đối ước muốn thống nhất ba miền của dân tộc An Nam, đó là một đòi hỏi mà tôi cho rằng chính đáng.
Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, có thể nào tôi đưa ra trước Quốc hội Pháp ước muốn độc lập của nước ông, với một danh sách mà tôi biết, ngày này qua ngày nọ, làng này qua làng kia, những hành động khủng bố, những cuộc ám sát các hào mục, những cuộc thảm sát người Pháp và bạn bè họ?
Có thể nào tôi yêu cầu Quốc hội Pháp từ bỏ một phần chủ quyền lãnh thổ đẻ thỏa mãn nguyện vọng của các ông mà chỉ thuần dựa vào những lời hứa thiện chí?”.
Tức là, phía người Việt Nam ta cũng phải chịu trách nhiệm một phần về sự bảo thủ, không khoan nhượng của người Pháp, vì hàng ngày, hàng giờ, những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Việt Nam ta luôn tìm cách phá hoại các cơ sở của người Pháp ở Việt Nam, bắt cóc, giết hại người Pháp, và các nhân viên Việt Nam mà làm việc cho Pháp ở Việt Nam, khiến cho các phần tử cứng rắn trong Chính phủ Pháp không muốn nhượng bộ về lãnh thổ, và quyền lợi cho phía Việt Nam.
Khi đó, năm 1945, 1946, ở miền Nam, việc giành được chính quyền về tay nhân dân đã kèm theo nhiều vụ trả thù đẫm máu.
Các cuộc trả thù của các anh du kích yêu nước vô bờ bến với những khẩu súng ngựa trời đã còn vô tình dẫn đến việc người Mỹ chấm dứt ủng hộ Việt Minh, và dẫn đến cuộc chiến tranh Mỹ-Việt Nam sau này.
Năm 1945, người Mỹ rất ủng hộ Việt Minh, đã cử lực lượng tình báo OSS-tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA-đến Việt Nam giúp Việt Minh và cụ Hồ Chí Minh giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Đầu tháng 9 năm 1945, một nhóm OSS khác của Mỹ đến Sài Gòn, do Trung tá Peter Deway chỉ huy, để hồi hương cho các tù binh chiến tranh người Mỹ bị Nhật bắt giữ, và bảo vệ các tài sản của Mỹ, không nhiều lắm, ở Sài Gòn.
Ngày 26 tháng 9 năm 1945, Trung tá Deway ra sân bay Tân Sơn Nhất để rời Việt Nam.
Nhưng một nhóm du kích Việt Minh nghĩ nhầm ông là người Pháp, nên đã chặn xe ôtô của ông, bắn chết ông, và lấy xác ông mang đi đâu mất.
Cụ Hồ khi nghe tin này, đã sững sờ, ra lệnh cho đi tìm lại xác Trung tá Deway, nhưng khi đó quân hồi vô phèng, lệnh trên không thiêng, nên không tìm được.
Một chương mới trong quan hệ Việt-Mỹ bắt đầu, người Mỹ quay sang ủng hộ người Pháp để đánh Việt Minh.
Trở lại câu chuyện cụ Hồ ở Pháp năm 1946, ký Tạm ước (Modus Vivendi) Việt-Pháp.
Ông Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải Ngoại Muotet là người rất có thiện cảm với quyền độc lập của Việt Nam, nhưng ông ấy cũng không thể làm gì được, không thể thuyết phục các phần tử cứng rắng trong Chính phủ Pháp, vì những hành động cực đoan, gây hấn của các thành phần dân tộc chủ nghĩa cực đoan của phía Việt Nam.
Ngày 18 tháng 9 năm 1946, Chính phủ Pháp phê chuẩn Tạm ước này.
Những tưởng nền hòa bình ở Việt Nam được thiết lập, và nước Việt Nam bắt đầu đoàn kết với nước Pháp trong Khối Liên hiệp Pháp, để tái thiết đất nước.
Ngày 15 tháng 9 năm 1946, Cụ Hồ lên chiếc tàu chiến mang tên Dumont d’Urville để về Việt Nam.
Cụ Hồ lênh đênh trên biển hơn 1 tháng, và về cảng Cam Ranh ngày 18 tháng 10, mang theo nhiều hi vọng về viễn cảnh tạm thời có hòa bình cho dân Việt Nam ta, tạm thời xây dựng một nước Việt Nam độc lập tương đối, nằm trong Khối Liên Hiệp Pháp, và tranh thủ được sự giúp đỡ của tiềm lực kinh tế-công nghiệp-khoa học-công nghệ-giáo dục-quản lý hiện đại của Pháp, để xây dựng đất nước Việt nam non trẻ Việt Nam.
Ông tư lệnh quân đội Pháp tại Đông dương d’Argenlieu đã đáp tàu chiến Croiseur Suffren ra tận ngoài khơi để đón Cụ Hồ.
Cụ Hồ vui vẻ, lạc quan tuyên bố với các nhà báo trên chiến hạm Suffren này là Cụ Hồ phản đối tất cả các hành vi khủng bố, và dùng bạo lực của những phần tử cực đoan trong nước Việt Nam.
Ông d’Argenlieu đề nghị Cụ Hồ chấp nhận việc để quân đội Pháp thay thế quân đội Việt Minh ở 6 tỉnh Nam Bộ, vì ở 6 tỉnh Nam bộ này, các hành động giết hại kiều dân Pháp, và giết hại người Việt làm việc cho Pháp xảy ra nhiều. Cụ Hồ kiên quyết từ chối.
Sự rạn nứt của quan hệ Việt-Pháp ngay sau khi ký Tạm ước bắt đầu từ đó, tại cảng Cam Ranh thơ mộng, đẹp như trong tranh, trên chiến hạm Suffren vào ngày 18 tháng 10 năm 1946 đó.
Sau ngày đó, ông d’Argenlieu tiến hành nhiều biện pháp ngoại giao và gây hấn quân sự để thực hiện việc giải giáp, đuổi quân đội Việt Minh ra khỏi 6 tỉnh Nam Bộ.
Cụ Hồ và Việt Minh tích cực chuẩn bị chiến tranh.
Quân đội Pháp gây áp lực với Việt Minh về thuế quan, bằng cách ném bom Hải Phòng vào ngày 23 tháng 11 năm 1946. Trên 2000 người dân Hải Phòng đã bị thiệt mạng trong vụ ném bom này.
Người Việt Nam trả thù. Ngày 17 tháng 12 năm 1946, có 3 quân nhân Pháp đi dạo phố ở Hà Nội. Một đám đông nhân dân Hà Nội đã xúm lại, khám người 3 người Pháp này, và phát hiện có vũ khí, nên đã xúm vào đấm đá, đánh chết tươi 3 người Pháp này.
Cùng ngày 17 tháng 12 đó, tướng Valluy trả thù, huy động quân Pháp ở Hải Phòng tấn công vào tất cả các căn cứ quân sự của Việt Minh. Hơn 1000 người dân Hải Phòng đã bị chết trong các cuộc tấn công này.
Ngày 18 tháng 12, năm 1946, người Pháp ra lệnh cho Việt Minh hạ vũ khí.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Cụ Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến.
Cuộc chiến tranh Việt-Pháp bắt đầu.
Đã đến lúc Đảng nên đổi mới về chính trị.
Sau Chiến tranh Việt-Pháp, là chiến tranh Việt-Mỹ, rồi chiến tranh với Polpot, rồi chiến tranh với Trung Quốc, rồi mất Hoàng Sa,,,.
Thật ra, có bao nhiêu cuộc chiến tranh cũng được, miễn là kết quả của các cuộc chiến tranh đó là phải đem lại tự do, hạnh phúc, sung sướng, giàu có cho nhân dân Việt Nam.
Năm 939, Vua Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc của Người bạn nhớn. Từ đó, dân ta có độc lập và tự do, hạnh phúc.
Năm 1075, tướng Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt-(sông Cầu-Bắc Ninh ngày nay) đem lại độc lập và tự do, hạnh phúc cho dân ta.
Năm 1257, 1284, và 1287, các vua Trần, và tướng Trần Hưng Đạo lãnh đạo dân ta 3 lần đánh thắng quân Nguyên xâm lược, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân Vietj nam.
Năm 1427, vua Lê Lợi và tướng Nguyễn Trãi lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân xâm lược Minh, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân ta.
Năm 1789, vua Quang Trung đánh thắng quân Thanh xâm lược, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân ta.
Và năm 1945, Cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo Việt Minh giành được độc lập cho dân ta.
Nhưng tự do, và hạnh phúc thì chưa.
Và như Cụ Hồ đã từng nói: “Nước có độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng không có nghĩa lý gì”.
Giờ đây, nhìn thảm cảnh nhiều cô gái đồng bằng sông Cửu Long xếp hàng dài cho người Hàn Quốc, Đài Loan xem mặt, như xem con vật, để mong lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, mới thấy thấm thía hơn nữa câu nói của Cụ Hồ: “Nước có độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng không có nghĩa lý gì”.
Nếu như ý tưởng của Cụ Hồ Chí Minh về một nước Việt Nam độc lập thuộc Liên hiệp Pháp được thực hiện, thì bây giờ không phải là các cô gái Việt Nam xếp hàng dài chờ lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, mà ngược lại, các cô gái Hàn Quốc, Đài Loan sẽ xếp hàng dài chờ được lấy chồng Việt Nam.
Cụ Hồ Chí Minh đã thuyết phục để Hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
Thế nhưng giờ đây, có biết bao nhiêu ông vua con, tài phiệt bất động sản, Nhóm lợi ích đang mọc lên, còn tệ hại hơn ông vua Bảo Đại ngày xưa nhiều. Thế nhưng lãnh đạo đảng và Nhà nước thì đi đâu cũng nói “Vì nhân dân phục vụ, Vì nhân dân quên mình,,,”, như con vẹt.
Cụ Hồ Chí Minh năm 1919, khi viết Yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, đòi thả hết các tù chính trị,,,thì được coi là yêu nước.
Người Việt Nam ta ngày nay khi lên tiếng đòi các quyền đó, thì có lẽ cũng bị rắc rối, bị cho là phản động.
Rõ ràng Tư tưởng Hồ Chí Minh đang bị Đảng ta sao nhãng, lãng quên, chỉ nói mà không làm, chỉ nói như con vẹt.
Đã đến lúc Đảng nên đổi mới chính trị.
Việt Nam ta đã giành được độc lập từ người Pháp, vậy phải xây dựng đất nước Việt Nam hạnh phúc hơn, tự do hơn, sung sướng hơn người Pháp, như thế mới đúng mục đích của giành độc lập-tự do.
Nếu người dân Việt Nam ta cứ nghèo khổ mãi, lạc hậu mãi, chặt chém khách du lịch mãi, ăn tục, chửi bậy, lừa đảo, vứt rác lung tung, thì độc lập đó để làm gì?
Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm đang khởi xướng cuộc cải cách hành chính, tinh giảm bộ máy lớn nhất từ trước đến nay, sáp nhập các Bộ, sáp nhập các Tỉnh, xóa bỏ cấp Quận-Huyện, sáp nhập và đổi mới cấp Xã-Phường.
Mục đích của Cuộc Đổi mới lần hai này là làm cho bộ máy đảng và Nhà nước gọn nhẹ hơn, hiệu quả hơn, và trên cơ sở đó, có thể tăng lương, tăng trách nhiệm, và tăng hiệu quả làm việc của bộ máy đảng và Nhà nước, để chuyển từ Quản lý, sang Phục vụ dân, như đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm đã nói.
Lâu nay, mỗi Bộ có 1 Bộ trưởng, và hàng chục Thứ trưởng, một Thủ tướng có tới gần 10 Phó thủ tướng, bộ máy các cấp cồng kềnh, kém hiệu quả, không thẻ tăng lương được, do đó không thể chống tham nhũng được.
Bộ chính trị chỉ cần khoảng 10 người là đủ.
Nếu chỉ cần 1 Thủ tướng, và 1 Phó Thủ tướng, 1 Bộ trưởng, 1 Thứ trưởng, thì tiền lương của Thủ tướng, Chủ tịch nước, Tổng bí thư, Chủ tịch Quốc hội có thể đạt mức 500 triệu đồng/1 tháng là bình thường, tiền lương của Bộ trưởng, Chủ tịch Tỉnh kiêm Bí thư tỉnh, Ủy viên Bộ chính trị có thể đạt mức 400 triệu đồng/1 tháng. Và do đó, chống tham nhũng có hiệu quả.
Đảng nên mở rộng thêm các quyền tự do dân chủ cho dân ta, cho phép có báo chí tư nhân, để người làm báo có thể tự do ủng hộ công cuộc Đổi Mới của đảng, và phải giảm bớt luật pháp hà khắc, cho bầu không khí xã hội được dễ thở hơn.
Để thúc đẩy kinh tế tư nhân, và thu hút đầu tư nước ngoài, nên mạnh dạn cho miễn thuế khởi nghiệp ít nhất 5 năm đầu tiên, khi người Việt Nam mới bắt đầu thành lập công ty, và khi người nước ngoài mới bắt đầu đầu tư vào Việt Nam.
Trong đảng phải có dân chủ hơn, các vị trí lãnh đạo phải giới thiệu vài người, để đảng viên có sự lựa chọn dân chủ, xóa bỏ cách bầu tròn, chỉ có 1 ứng cử viên.
Việt Nam ta đã giành được độc lập từ người Pháp, mà không tự do, không hạnh phúc, không sung sướng hơn người Pháp, thì độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.///
