Hà Nội thời Pháp thuộc, thanh lịch và văn hóa

 

W.Minh Tuan

(Theo báo Hà Nội Mới)

Người Pháp vào đô hộ Việt Nam ta từ khoảng những năm 1850, và mang theo văn hóa Pháp, phong cách Pháp, kinh tế Pháp, cách quản lý hành chính Pháp, cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước theo kiểu Pháp, và mang tiếng Pháp vào Việt Nam, nhưng vẫn không làm mất đi cái bản sắc văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa.

Có thể nói, nền văn hóa Pháp đã pha trộn với nền văn hóa Việt Nam, chứ không tiêu hủy văn hóa Việt Nam, nên từ thời Pháp, ở Việt Nam ta bắt đầu xuất hiện một số thuật ngữ như “người Hà Nội thanh lịch”, chữ “thanh lịch” này từ ngàn xưa, trong tiến Việt chưa có, vì chữ “thanh lịch” chỉ bắt nguồn từ chữ ELLEGANT của tiếng Pháp, chỉ bắt đầu từ khi tiếng Pháp và văn hóa Pháp du nhập vào Việt Nam.

Người Pháp thiết kế xây dựng Hà Nội, và xây dựng các đô thị ở Việt Nam, như Sài Gòn, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế,,,theo phong cách kiến trúc Pháp hiện đại, văn minh, đường phố thẳng, các biệt thự kiến trúc Pháp tuyệt đẹp, và vẫn giữ lại các kiến trúc đền chùa, miếu cổ, nhà cửa của Việt Nam.

Bây giờ các biệt thự, tòa nhà kiến trúc Pháp ở các đô thị Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn,,, đã trở thành những tài sản kiến trúc-văn hóa vô giá cho Việt Nam.

Chẳng hạn như Nhà hát lớn Hà Nội, Nhà hát nhỏ Sài Gòn là những tài sản văn hóa vô giá cho ngàn đời sau ở Việt Nam.

Những tòa nhà biệt thự kiểu Pháp như tòa nhà trường Đại học Dược Hà Nội, trường đại học Tổng hợp Hà Nội ở phố Lê Thánh Tông, gần hồ Hoàn Kiếm, tòa nhà Bộ Ngoại Giao ở gần Lăng Hồ Chí Minh, Hà Nội,,,là niềm tự hào của kiến trúc Pháp ở Hà Nội.

Hà Nội thanh lịch thời Pháp chưa đông đúc, ồn ào, bát nháo chí khươn như bây giờ.

Ô tô đi ngoài phố rất thưa thớt và cũng chỉ có ở vài phố như Điện Biên Phủ, Tràng Thi, Tràng Tiền, Trần Hưng Đạo bây giờ. Loại ô tô du lịch thường là hiệu Renault, Citroen, Peugeot, hình thù cổ lỗ và đơn điệu: xe thấp, phía đuôi xuôi hẳn xuống, phía đầu 2 cái đèn ở trên cái chắn bùn.

Nếu đi ngược thời gian về những năm 1930-1935, thì ở Hà Nội xe ô tô loại sang của các “quan” cũng chỉ là cái xe giống loại bây giờ ta gọi là commăngca (xe chỉ huy của quân sự). Khi trời mát, các quan hạ mui xuống cho thoáng đãng. Thế cho nên sau này có xe kiểu du lịch, người ta gọi là “xe hòm” vì nó đóng kín, để phân biết với loại xe mui vải bạt.

Thợ thuyền ăn mặc xoàng xĩnh còn học sinh là những người  ăn mặc sạch sẽ nhất, phần lớn đi bộ. Hầu hết phụ nữ, kể cả sang hèn đều đi guốc.

Đàn ông, (cả thanh niên, thợ, học sinh) cũng đi guốc nhiều hơn là giày và săng đan.

Nhìn xã hội Việt Nam thời Pháp đầu thế kỷ 20, với những cô gái mặc áo dài, đàn ông cũng mặc áo dài, đội khăn xếp, ngày Tết dân thường thì đàn ông mặc áo cấp, hay áo vóc Mai Thọ, còn đàn bà mặc áo vóc Lê Lựu, chúng ta không thấy nền văn hóa Pháp lấn ướt, phá hủy, thay thế nền văn hóa Việt Nam, mà vẫn thấy văn hóa Việt Nam vẫn được giữ vững và phát triển, sang trọng hơn, đẹp hơn.

Nhà quan dùng nón Nghê, thứ nón vừa nhẹ vừa xinh. Người có phẩm tước, tức làm quan, ngày Tết mặc áo lam hay áo gấm, quần điều, còn vợ họ khác thường dân ở cái quần điều và đôi giày điều (tức giày dừa, mũi giày bằng nhung màu, thêu cườm).

Ngày thường nhà phong lưu đội khăn lượt thâm, mặc áo the La Cả, áo sa trơn hay sa hoa, quần vải trúc bâu, đi giày Gia Định. Còn đàn bàn chít khăn bít tóc bằng lượt, nhiễu hay nhung, tóc đuôi gà vắt ngang mái tóc.

Phụ nữ mặc áo dài lụa, áo băng, quần lĩnh rút rế, lĩnh Tây Lăng do làng Bưởi dệt, đi dép cong sơn đen, đội nón ba tầm, sau đi giày mũi da hoặc nhung…

Ở đám cưới, chú rể mặc áo gấm, những người phù rể mặc áo đoạn hoặc xa tanh đen, họ đều mặc quần vải trúc bâu trắng. Chú rể, cô dâu đều đi giày dừa, chú rể mũi giày xanh, cô dâu mũi giày trắng…

Về sau, nam cũng như nữ, rất ít người dùng nón mà thường dùng ô, trai dùng ô lục soạn đen, gái dùng ô nhỏ hơn, đủ các màu.

Các bà các cô bỏ đôi dép cong nặng chịch để đi giày. Phụ nữ có tuổi đi giày da, còn trẻ thì đi giày mũi nhung, thêu cườm, hay thêu kim tuyến, mua hoặc thửa ở hiệu Đức Mậu – Hàng Bồ.

Những năm 1920, đàn ông mặc tây, quần ống rộng, áo vét tông 2 khuy bó chặt thân, cà vạt bện to. Các bà mặc áo dài ngắn vạt, tay ráp phùng ở vai, tóc dài chấm gót bới thành bánh.

Từ năm 1930 trở về sau, việc mặc quần áo tây mỗi ngày một nhiều và có nhiều mốt mới.

Về mùa rét, nếu mặc comlê (complet) thì gọi là diện ive (hiver là mùa đông). Comlê gồm có quần, gilê (gilet), vét tông (veston), ngoài ra còn cavát (cravate), mũ phớt (feutre, một loại dạ).

Vải may comlê (bằng tissus) ưa thích là Dormeuil và một vài thứ khác như Montagnard… Thanh niên thích màu xanh chai (cho màu đó là trẻ); người già, đứng tuổi dùng màu gam nâu, màu xám…

Quần tây bấy giờ đang thịnh mốt gấu lơvê (levé, gấu gấp lên).

Về mùa hè – vì là xứ nhiệt đới – thanh niên thường mặc quần trắng, hiếm khi quần màu và không có ai dùng quần kaki. Áo thường là sơ mi dét (chemisette, thân ngắn, hẹp, tay cộc) bằng vải phin hay dệt kim. Dệt kim thường là hàng Tây, mà nổi tiếng là của hãng Pháp Valisère; sơ mi dét Valisère có vài màu, nhưng được ưa chuộng là màu tím than.

Khi ấy không có cách mặc sơ mi bỏ ngoài quần, kể cả những người lao động, vì đã gọi là mặc Tây thì phải quần, xanh tuya (ceinture- dây thắt lưng) bó áo vào trong.

Mũ, thì đầu mùa hè không dùng, đầu trần đã bắt đầu thành mốt. Cái mũ cát (casque) thường dùng ở những người mặc theo lối ta, hoặc mặc Tây nhưng ở các ông thầu khoán, cai kíp, người đứng tuổi.

Mùa rét người ta dùng giày da. Phổ cập là màu nâu, ít người dùng giày đen. Mùa thu hay mùa hè, dùng giày đơ culơ (deux couleurs, hai màu). Mùa nóng, thanh niên đi giày vải là phổ biến.

Hiệu giày có nhiều nhưng được ưa thích là giày Tiệp Khắc- giày Ba Ta bán ở phố Hàng Đào.

Vào năm 1935, một họa sĩ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là Nguyễn Cát Tường, chủ cửa hàng mốt phụ nữ tân thời lớn nhất ở 16 phố Lê Lợi – Hà Nội, đã có sáng kiến đưa ra một kiểu áo dài ceintré thắt lưng ong, gấu viền nhỏ, vê tròn, chiếc áo được may bó sát người làm nổi lên những đường cong hấp dẫn trên cơ thể phụ nữ, khiến thân hình như cao hơn, mảnh mai hơn.

Còn chiếc quần được may bằng lụa hay sa tanh trắng hơi bó sát mông và đùi để mở rộng từ đầu gối xuống, làm cho đôi chân như dài hơn trên đôi dép cao gót. Kiểu áo này gọi là kiểu Lơmuya (Lemur nghĩa là tường).

Người Việt Nam ta đã chủ động cải tiến mẫu quần áo, pha trộn mẫu váy bó của Pháp với áo dài thâm đen cổ truyền của Việt Nam, để làm nên những mấu áo dài mới bó sát người hơn, làm nổi bật những nét đẹp của cơ thể người phụ nữ.

Gần đây, một cô tiếp viên hàng không Việt Nam nói với tôi rằng khi cô ấy sang Thái Lan, mặc cái áo dài bó sát người đó, cô tiếp viên Thái Lan không dám mặc, vì sợ quá bị gợi cảm, quá sexy, làm ảnh hưởng đến hành khách đi máy bay.

Các cô gái trẻ thời Pháp thường đi guốc, và guốc thì thường thấp gót. Ít người đi guốc cao gót và không có ai đi dép (tất nhiên cũng chưa có người sản xuất dép nữ).

Những dịp trịnh trọng thì đi giày cườm (kiểu mõm nhái). Nếu là cưới, thì đi hài. Hai kiểu giày nữ này thường do hiệu “Quận Chúa” ở phố Hàng Đào sản xuất và bán. Phụ nữ đi ngoài phố thường là đi tay không mang gì cả. Cái sắc tay (sac à main) cũng ít người dùng.

Về cái răng cái tóc vào năm 1939 hãy còn những cô gái ngoài 20 tuổi răng đen. Tuy vậy lúc cần thiết vẫn đánh phấn má hồng, môi son và mặc “tân thời” (cái từ “tân thời” từ năm 1940 người ta không dùng nữa).

Rồi dần dần những hàm răng đen cũng biến thành trắng. Có lẽ đó cũng là một trong những “bối cảnh” để xuất hiện mốt “Mỹ viện Amy” ở phố Hàng Than với cái quảng cáo: “Cạo răng đen – Uốn tóc – Kẻ lông mày”.

Vì vậy, cái “Mỹ viện Amy” này có thể đi vào “lịch sử” được vì nó là 1 trong vài hiệu uốn tóc nữ đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội.

Cho đến năm 1945, khi Cách mạng tháng 8 thành công, thì văn hóa Việt Nam cũng thay đổi nhanh lắm. Phong cách ăn mặc theo kiểu Liên Xô cũ, theo kiểu các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ đã du nhập nhanh vào Việt Nam, thay thế dần các mẫu quần áo, ăn mặc, và kiến trúc xây dựng cổ truyền của Việt Nam.

Đến thời Bao cấp, thì kiến trúc xây nhà lắp ghép tấm lớn theo kiểu Liên Xô cũ bắt đầu thay thế kiến trúc Pháp. Các khu tập thể, chung cư xây theo kiểu lắp gắp Liên Xô cũ ở Hà Nội như khu Văn Chương, Giảng Võ, Thành Công,,,bây giờ vẫn tồn tại, xuống cấp thảm hại, muốn thay đổi cũng khó.

Còn ngược lại, các tòa nhà kiến trúc Pháp, biệt thự Pháp nễu may mẵn vẫn ddwwocj giữ lại, chưa bị phá đi, thì vẫn đẹp, vẫn sang trọng, vẫn là mấu mực của nền kiến trúc vừa hiện đại, vừa cổ truyền, vẫn tồn tại hàng nhiều trăm năm sau nữa.

Các vị lãnh đạo đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay chủ yếu đang sống trong những căn biệt thự kiến trúc Pháp, chứ vị lãnh đạo nào người sống trong những tòa nhà lắp ghép theo kiểu Liên Xô cũ.

Đường phố Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Đà Lạt xây theo kiến trúc Pháp không bao giờ bị ngập lụt, thì nay ngập lụt hàng năm, gây điêu đứng cho đời sống nhân dân.

Những kiểu cách quần áo thời Pháp như áo dài, áo lĩnh, quần thâm,,,bây giờ không mấy khi thấy, chỉ thấy văn hóa lai căng, quần áo, váy ngắn cũn cỡn, hở mông, hở rốn, hở đít, hở đùi, hở lưng, hở ngực.

Các cô gái Việt Nam ngày nay thay nhau, đua nhau khoe cơ thể khẳng khiu, gầy dơ xương, chân vòng kiềng, ngực lép kẹp, thế mà vẫn cứ mặc đồ ngắn cũng cỡn đẻ khoe mấy thứ “trước sau như một” đó.

Đường lối phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng nói “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” là rất đúng, bây giờ cần biến khẩu hiệu đó thành hành động thực tế.

Phát triển kinh tế, nhưng phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.///


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Time limit exceeded. Please complete the captcha once again.