W.Minh Tuan
Lịch sử nước Việt Nam đến nay đã trải qua hơn 4000 năm, đã có nhiều bộ sách lịch sử, nhưng theo tôi, có 2 bộ sách lịch sử có giá trị nhất, là bộ sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của cụ Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên, và bộ sách Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim.
1-Bộ sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Bộ sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư-ĐVSKTT-do cụ Lê Văn Hưu (1230-1322) thời nhà Trần viết đầu tiên, hoàn thành năm 1272, viết về các sự kiện từ thời Hồng Bàng mở nước, bắt đầu từ năm Nhâm Tuất 2879 tCN, là năm khởi đầu của nước Việt Nam ta, tức là thời kỳ 18 vua Hùng Vương, dân tộc Lạc Việt, đến năm 1225, khi kết thúc nhà Lý.
Sau cụ Lê Văn Hưu gần 100 năm, cụ Phan Phù Tiên viết tiếp các sự kiện từ năm 1225, là năm kết thúc nhà Lý, bắt đầu nhà Trần, viết các sự kiện đến năm 1427, khi vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh. Cụ Phan Phù Tiên viết hoàn thành vào năm 1445.
Thời vua Lê Thánh Tông, cụ Ngô Sĩ Liên viết tiếp, sửa chữa, thêm bớt, làm xong, dâng lên vua Lê Thánh Tông vào năm 1479. Rồi sau đó, các cụ Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hi, Lê Tung thời nhà Lê viết tiếp các phần sau, cho đến các sự kiện của năm 1656 là kết thúc bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư.
Cụ Lê Hi cho khắc gỗ và xuất bản bộ ĐVSKTT vào năm 1697, đời vua Lê Hi Tông, năm Chính Hòa thứ 18.
Bản in đầu tiền của cụ Lê Văn Hưu năm 1272 đến nay không còn.
Bộ sách ĐVSKTT là cuốn sách lịch sử Việt Nam ta xưa nhất, và có giá trị nhất trong toàn bộ các bộ sách lịch sử Việt Nam từ trước đến nay.
Những bộ sách sử Việt Nam xưa hơn nếu có, đều đã thất lạc, không tìm thấy. Một số cuốn sách lịch sử khác còn lại đến ngày nay, ví dụ Việt Sử Lược, hay còn gọi là Đại Việt Sử Lược, không rõ tác giả, xuất bản bên Trung Quốc, thời nhà Thanh. Hoặc cuốn An Nam Chí Lược, của Lê Tắc, hay còn gọi là Lê Trắc, một người Việt đầu hàng quân Nguyên thời nhà Trần, chạy sang Trung Quốc, viết ở Trung Quốc. Hai bộ sách này đều viết sau, viết lại, hoặc cải biên từ bộ sách của cụ Lê Văn Hưu, và chịu nhiều ảnh hưởng nô dịch Hán, nên chúng ta chỉ nên dùng để tham khảo, không đáng tin cậy.
Giá trị của bộ sách Việt Sử Lược là ở chỗ nó không bị cụ Ngô Sĩ Liên biên tập cắt bỏ, nên nó có nhiều đoạn mà bộ ĐVSKTT ngày nay không còn, vì bị cụ Ngô Sĩ Liên biên tập cắt bỏ, thì bộ Việt Sử Lược vẫn có.
Cả hai bộ sách Việt Sử Lược, và An Nam Chí Lược đều không được các triều đình phong kiến Việt Nam ta coi là chính sử.
Cụ Lê Văn Hưu sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ 92 tuổi, quê ở xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm Đinh Mùi 1247, khi mới 17 tuổi, cụ Lê Văn Hưu thi đỗ bảng nhãn, bậc hai, sau trạng nguyên, được bổ nhiệm làm quan đến chức Thượng thư Bộ binh, giống như chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay. Cùng năm đó, có cụ Nguyễn Hiền, mới 13 tuổi, thi đỗ trạng nguyên, bậc một, và cụ Đặng Ma La cũng 13 tuổi, thi đỗ thám hoa, bậc ba.
Bộ Đại Việt Sử Ký của cụ Lê Văn Hưu gồm 30 quyển. Cụ Lê Văn Hưu chỉ viết sử Việt Nam ta từ thời Hồng Bàng đến năm 1225, là năm cuối của nhà Lý. Cụ Lê Văn Hưu không viết gì về tình hình thời nhà Trần, về 3 lần đánh thắng quân Nguyên, là các sự kiện xảy ra khi cụ Lê Văn Hưu đang sống và chứng kiến. Đó quả là điều đáng tiếc.
Nếu cụ Hưu viết thêm cả những vấn đề lịch sử của thời nhà Trần, là thời gian khi cụ đang sống, đang chứng kiến, thì giờ đây chúng ta có những chi tiết sống động và đầy đủ hơn nhiều về nhà Trần, nhất là về 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, và về tướng Trần Hưng Đạo.
Khi quân Nguyên xâm lược Việt Nam ta lần thứ nhất năm 1257, cụ Lê Văn Hưu 27 tuổi, đã thi đỗ bảng nhãn được 10 năm, (cụ Hưu thi đỗ năm 17 tuổi), và đã được bổ làm pháp quan, giữ việc hình luật.
Khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, năm 1284-1285, cụ Lê Văn Hưu 54 và 55 tuổi.
Và khi quân Nguyên xâm lược Việt Nam ta lần thứ ba, năm 1287-1288, cụ Lê Văn Hưu 57 và 58 tuổi.
Tức là cụ Lê Văn Hưu đã chứng kiến đầy đủ nhất cả 3 cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Nguyên của dân tộc Việt Nam ta, và chắc là cụ có tham gia các cuộc kháng chiến đó. Hơn nữa, cụ Lê Văn Hưu lại là thầy dạy học cho thượng tướng Trần Quang Khải, một vị tướng nổi tiếng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đó.
Thế mà cụ Lê Văn Hưu không viết một chữ nào về 3 cuộc kháng chiến đó. Cụ Lê Văn Hưu không hề viết cho chúng ta biết các vị vua Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông, tướng Trần Hưng Đạo, tướng Trần Khánh Dư, tướng Trần Quang Khải, tướng Trần Thủ Độ,,, trông như thế nào, nét mặt ra sao, quần áo mặc thế nào, khổ người lớn, bé, gầy, béo, khỏe mạnh,,,như thế nào? Rồi quân đội Việt Nam ta hồi đó ăn mặc thế nào? Vũ khí ra sao?
Cụ Lê Văn Hưu đã gặp các vị vua, quan, tướng đó, đã chứng kiến, nhìn thấy, nghe thấy, đã hít thở không khí của thời kỳ oai hùng đó.
Thế mà cụ Lê Văn Hưu không viết gì hết, không có một chữ nào cả.
Mãi sau này, gần 100 năm sau, cụ Phan Phù Tiên khi viết tiếp bộ Đại Việt Sử Ký của cụ Lê Văn Hưu, mới viết về 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đó, viết rất sơ sài.
Thật là đáng tiếc.
Cụ Lê Văn Hưu, và cụ Phan Phù Tiên viết sử sơ sài, bỏ sót như vậy, thật là đáng phê phán.
Các cụ Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hi, Lê Tung thời nhà Lê đã sửa đổi, và viết tiếp bộ Đại Việt Sử ký, viết tiếp các sự kiện từ năm 1225, đến năm 1656, thời vua Lê Duy Kỳ, là kết thúc bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, và đổi tên từ Đại Việt Sử Ký thành Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Cả 6 cụ nêu trên đều viết cả những vấn đề lịch sử của thời nhà Lê là thời các cụ đó đang sống, đang chứng kiến, nên khi viết về thời kỳ nhà Lê, có nhiều chi tiết sống động hơn, cụ thể hơn, đầy đủ hơn.
Nhưng cũng có thể ta trách oan cụ Lê Văn Hưu. Vì cụ Phan Phù Tiên, và cụ Ngô Sỹ Liên khi viết tiếp cuốn sử của cụ Lê Văn Hưu, đã tự tiện cắt bỏ rất nhiều chi tiết, và tự thêm vào nhiều chi tiết, nên không biết chỗ nào là cụ Lê Văn Hưu viết, chỗ nào là cụ Phan Phù Tiên viết, chỗ nào là cụ Ngô Sỹ Liên viết.
Và mặc dù cụ Lê Văn Hưu viết xong bộ Đại Việt Sử Ký vào năm 1272, nhưng bản in xưa nhất còn lại đến ngày nay là bản in năm 1697, năm Chính Hòa, thời cụ Lê Hi, vua Lê Hi Tông (1676-1705), và chúa Trịnh Căn, sau cụ Lê Văn Hưu tới 425 năm.
Bản in gốc thời cụ Lê Văn Hưu đã thất lạc, không còn.
Rất có thể 3 lần người Chàm xâm lược Việt Nam ta, tàn phá kinh thành Thăng Long vào các năm 1371, 1377, 1378, và quân Minh xâm lược Việt Nam ta trong 20 năm, từ năm 1407, đến năm 1427, đã tàn phá và tiêu hủy nguyên bản bộ Đại Việt Sử Ký của cụ Lê Văn Hưu.
Và cũng có thể cụ Ngô Sĩ Liên có được bản gốc đó còn sót lại sau các cuộc tàn phá nói trên, nhưng cụ Ngô Sĩ Liên đã sửa chữa lại, và bỏ đi bản gốc của cụ Lê Văn Hưu, mà chỉ dùng bản đã sửa chữa của mình.
Cụ Lê Quí Đôn (1726-1784) thời nhà Lê đã từng than thở trong mục “Văn Nghệ Chí”, trong bộ sách “Đại Việt Thông Sử” của cụ, về việc nước Việt Nam ta lưu trữ và in ấn tài liệu, sách vở không tốt như sau:
“Tôi đã từng đọc mấy tập Văn Nghệ Chí của các đời Hán, Tùy, Đường, Tống (bên Trung Quốc), thấy tên sách vở ghi ở đó, kể có hơn trăm vạn cuốn, giàu thịnh biết chừng nào. Những sách vở ấy, ở kho chứa sách của các vua chúa cất chứa cực kỳ tề chỉnh, rồi ở nhà các sĩ phu, thâu lượm tàng trữ lại càng cẩn thận, sự truyền bá của nó cũng rất rộng rãi, cho nên, dù có trải qua mấy phen binh lửa, cũng không tan lạc bao nhiêu.
Nước ta gọi là nước văn hiến, trên từ các bậc đế vương, dưới đến kẻ thần thứ, phần nhiều đều có trứ thuật (học thuật và trước tác-Minh Tuấn). Vậy mà gom góp cả lại, chẳng qua độ hơn trăm pho, so với sách vở của Tàu, chưa được bằng một phần mười. Sách đã ít, mà sự chứa cất lại rất sơ sài, chỗ để sách không có định cục, quan coi sách không có chính viên, những việc soi xét, sao chép, phơi phóng, cất chứa đều không có phép lệ nào cả. Cho đến những kẻ học hành, cũng chỉ mua chuốc, thâu lượm các sách cử nghiệp, để hòng kiếm sự thi đỗ, hễ thấy sách lạ đời trước không dính líu đến văn tự khoa cử, thì họ bỏ không thèm sao, hay có sao chăng, họ cũng ghi chép qua loa, không thèm kiểm lại. Còn như những người thích chứa sách cổ, thì lại ai để làm của riêng nấy, cố dấu cho kín, không nói với ai. Vì vậy, tìm sách rất khó, mà khi tìm được, lại nhan nhản những chỗ lầm lẫn, thiếu sót, không biết đằng nào mà chữa. Đó là một việc mà những người có chút kiến thức đều phải phàn nàn.
Ngày nay, chẳng những các thứ chiếu sách, sắc lệnh, tụng ca nhị thập, nghị luận điển chương trong hơn 300 năm của hai đời Lý, Trần, có thể kể ra từng món, đều bị tản mác đâu mất, mà đến cả bộ “Thiên Nam Dư Hạ Tập” chép những chế độ, luật lệ, văn hàn, điển cáo của bản triều (nhà Lê), mười phần cũng chỉ còn độ một, hai. Lại còn bao nhiêu văn tập của tiên hiền trong cuốn “Trích Điếm Thi Tập” có ghi, bây giờ cũng chỉ còn được cái tên, không ai được biết nội dung ra sao.”
Với tình trạng lưu giữ tài liệu như vậy ở nước Việt Nam ta thời đó, chúng ta thấy bản gốc bộ ĐVSKTT của cụ Lên Văn Hưu nếu đến đời Lê đã bị thất lạc, thì cũng dễ hiểu.
Sau cụ Ngô Sĩ Liên hơn 200 năm, cụ Lê Hi vâng lệnh chúa Trịnh Căn, đã cùng một số người khác bổ sung, biên soạn lần cuối cùng bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, và cho khắc chữ bản gỗ, in vào năm 1697, năm Chính Hòa, triều vua Lê Hi Tông, cách đây hơn 300 năm, tại làng Liễu Tràng, xã Hồng Lục, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Làng Liễu Tràng là làng nghề có nghề khắc chữ và in sách trên bản gỗ nổi tiếng từ hàng nghìn năm nay.
Năm 1981, giáo sư sử học Phan Huy Lê, dòng dõi cụ Phan Huy Chú, Phan Huy Ích, sang Pháp, phát hiện bản in gốc Liễu Tràng, chữ Hán, năm Chính Hòa 1697 được lưu giữ tại Thư viện trường Đại học Paris 7, thủ đô Paris, Pháp. Cụ Phan Huy Lê đã xin phép phía Pháp sao chụp phim (microfilm), mang về Việt Nam, và Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Việt Nam cho dịch sang tiếng Việt, và xuất bản lần đầu bản Chính Hòa này năm 1983 bằng tiếng Việt.
Năm 2016 cụ Lê Văn Hưu lại thêm một lần nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới, vì quán bún chả ở phố Lê Văn Hưu, Hà Nội được đón Tổng thống Mỹ Obama đến ăn bún chả tối ngày 23 tháng 5 năm 2016 trong chuyến thăm Việt Nam năm đó, trước khi hết nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ.
Nhưng phải nói thật là ngày nay không có nhiều người Việt Nam ta biết cụ Lê Văn Hưu là ai, làm gì. Nhiều người Việt Nam ta có lẽ chỉ biết tên cụ Lê Văn Hưu nhờ quán bún chả Obama đó mà thôi.
Nước Trung Quốc có cuốn sách lịch sử vĩ đại đầu tiên là cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên, do ông Tư Mã Thiên (Shima Qian) viết. Ông Tư Mã Thiên sinh năm 145 trước Công nguyên, mất năm 86 trước Công nguyên, thọ 59 tuổi, chỉ sau thời Tần Thủy Hoàng (259-210) hơn 100 năm, và cùng thời với Triệu Đà của nhà Hán đánh vua An Dương Vương của Việt Nam ta.
Khi ông Tư Mã Thiên sinh ra, thì Triệu Đà và con, cháu Triệu Đà của nhà Hán đã thống trị Việt Nam ta được gần 100 năm. Đây cũng là bộ sách lịch sử đầu tiên trên thế giới viết về lịch sử một quốc gia, là nước Trung Quốc bao la, viết các sự kiện kéo dài trên 3000 năm, từ thời vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Hoàng Đế, đến vị vua đương thời với ông Tư Mã Thiên, là vua Vũ Đế. Tức là ông Tư Mã Thiên viết cả những vấn đề lịch sử của thời đại mà ông đang sống, không như cụ Lê Văn Hưu của Việt Nam ta, nên cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên có rất nhiều chi tiết cụ thể, sống động của thời thời cụ Tư Mã Thiên đang sống.
Nước ta, chỉ đến thời nhà Trần, cụ Lê Văn Hưu mới viết bộ sách lịch sử Việt Nam đầu tiên, sau cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên của Trung Quốc hơn 1000 năm.
Vì sao nước Việt Nam ta viết lịch sử muộn như vậy?
Rất dễ hiểu. Nước ta bị người Hán của cụ Tư Mã Thiên đô hộ hơn 1000 năm, từ năm 207 trước Công nguyên, khi Triệu Đà đánh bại vua An Dương Vương của Việt Nam ta, bắt đầu thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, đô hộ Việt Nam ta đến năm 938, khi vua Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc.
Thế cho nên chỉ sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam ta mới có đủ điều kiện tự do để viết về lịch sử của nước mình. Nếu nước ta vẫn dưới sự đô hộ của nhà Hán, thì nước Việt Nam ta sẽ không có lịch sử riêng của mình, mà sẽ chỉ là lịch sử sơ sài, được nhắc đến đôi chút trong các bộ sách lịch sử đồ sộ của người Trung Quốc mà thôi.
Bởi vậy chúng ta phải cảm ơn cụ Ngô Quyền nhiều lắm. Nếu cụ Ngô Quyền không đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, thì có lẽ nước Việt Nam ta ngày nay cũng chỉ như dân tộc Choang bên Trung Quốc mà thôi.
Và ngay cả khi nước Việt Nam ta viết sử riêng của nước mình rồi, thì các cụ Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên,,, cũng viết bằng chữ Hán, chứ không phải bằng chữ Việt, bởi vì nước ta khi đó vẫn chưa có chữ viết riêng.
Kể từ thời kỳ 18 vua Hùng Vương, đến thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, rồi đến thời kỳ độc lập phong kiến, và đến gần đây, hơn 4000 năm, nước ta không có chữ viết riêng, tất cả các tài liệu viết đều dùng chữ Hán, chỉ nói là dùng tiếng Việt.
Chỉ đến năm 1918, người Pháp cho chấm dứt dùng chữ Hán ở nước ta, từ đó, nước ta mới dùng chữ viết tiếng Việt như ngày nay. Và chữ tiếng Việt Quốc ngữ của chúng ta như ngày nay cũng không phải do dân tộc Việt Nam ta sáng tạo ra, mà do các cha cố truyền đạo người Pháp, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến nước Việt Nam những năm 1600, cách đây gần 400 năm, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, sáng tạo ra, và có công lớn nhất là giáo sĩ người Pháp Alexadre de Rhodes (1591-1660).
Ngày nay, giáo sĩ Alexadre de Rhodes vẫn chưa được tôn vinh xứng đáng là một thiếu sót lớn, cần được sửa chữa một ngày nào đó.
Tôi sẽ nói kỹ về cụ Alexadre de Rhodes ở phần sau.
Nhưng phải nói là nền giáo dục chữ Hán của nước Việt Nam ta thời xưa thật là tuyệt vời. Các cụ Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn,,,chỉ học chữ Hán ở trong nước Việt Nam ta, mà viết tất cả các tác phẩm bằng chữ Hán được, giỏi như các học giả người Trung Quốc.
Thử hỏi nền giáo dục của Việt Nam ta ngày nay, có đào tạo được ở trong nước những người nói và viết tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Tàu,,,thành thạo như người bản xứ được không? Có thể có, nhưng có lẽ không nhiều lắm.
Xin nói thêm một chút về những tác giả khác của bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
-Cụ Phan Phù Tiên không rõ năm sinh, năm mất, quê ở làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội ngày nay. Cụ thi đỗ thái học sinh năm 1396 thời cuối nhà Trần. 33 năm sau, cụ Phan Phù Tiên lại thi đỗ khoa Minh Kinh năm 1429, khóa thi đầu tiên của nhà Lê. Vua Lê Lợi đánh thắng quân Minh năm 1427, và 2 năm sau, vua Lê Lợi cho mở khóa thi đầu tiên này để chọn người tài ra giúp việc nước.
Cụ Phan Phù Tiên vào năm 1455, vâng mệnh vua Lê Nhân Tông, là cháu của vua Lê Lợi, soạn tiếp bộ Đại Việt Sử Ký, khi đó có tên là Đại Việt Sử Ký Tục Biên, viết các sự kiện từ thời nhà Trần, từ năm 1225, đến đời vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh năm 1427.
-Cụ Ngô Sĩ Liên không rõ năm sinh, năm mất, quê ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội. Năm 1442, cụ thi đỗ tiến sĩ, giữ chức Tả thị lang bộ Lễ, giống như Bộ Ngoại Giao bây giờ. Cũng năm đó, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) tên húy là Lê Tư Thành, được sinh ra. Năm 1460, hoàng tử Lê Tư Thành 18 tuổi, được lên làm vua, miếu hiệu là Lê Thánh Tông, là vị vua có công khai sáng lớn nhất trong toàn bộ các triều đại phong kiến Việt Nam.
Cụ Ngô Sĩ Liên vâng mệnh vua Lê Thánh Tông biên soạn lại bộ sách trên của cụ Lê Văn Hưu và Phan Phù Tiên, đổi tên thành Đại Việt Sử Ký Toàn thư, hoàn thành năm 1479. Cụ Ngô Sĩ Liên sửa chữa khá nhiều sách của cụ Lê văn Hưu và Phan Phù Tiên, và đưa thêm 166 đoạn văn bình luận lịch sử rất có giá trị.
Nhưng cũng phải công bằng mà nói, không phải lời bình nào của cụ Ngô Sĩ Liên cũng hay, cũng có giá trị. Ví dụ ngay ở phần đầu bộ sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, khi nhận xét về truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh, cụ Ngô Sĩ Liên cho rằng đó là chuyện “quái đản”, không thể tin được.
Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh hay như thế, nói về văn hóa thời kỳ Hùng Vương, và nói về tinh thần khắc phục bão lụt, thiên tai của nhân dân ta, ngày nay được đưa vào sách giáo khoa để dạy học cho trẻ em trong nhà trường, và được in trong sách truyện Cổ Tích Việt Nam, thế mà cụ Ngô Sĩ Liên cho là “quái đản”. Chúng ta đều biết truyền thuyết là các câu chuyện 3 phần thực, 7 phần hư, thậm chí chẳng có thực nào cả. Thế nhưng nó đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân, trở thành văn hóa, tinh thần của một dân tộc, thì cần gì phải thực hay hư, để mà bắt bẻ là “quái đản” không thể tin được!
Truyện Thánh Gióng là gì? Có quái đản không? Có thật không? Thế mà tại sao nhân dân Việt Nam ta rất tự hào với câu chuyện cậu bé 3 tuổi trở thành Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc, cứu nước đó, và hàng năm vẫn làm lễ hội tưởng niệm?
Cụ Ngô Sĩ Liên có một sai lầm rất đáng phê phán, là cụ tự ý sửa chữa, thêm bớt bộ sách của cụ Lê Văn Hưu từ 30 quyển của cụ Lê Văn Hưu, mà đến nay Nhà xuất bản Khoa học Xã hội in ra chỉ được 1 quyển chữ Hán, và 3 quyển dịch sang tiếng Việt. Tất nhiên quyển thời xưa, và quyển thời nay cũng khác nhau. Nhưng chắc chắn từ 30 quyển, nay chỉ còn số lượng chữ chỉ đủ cho 1 quyển chữ Hán ngày nay, thì dù giày mỏng khác nhau, chắc cũng bị vứt bỏ nhiều lắm.
Đáng lẽ phải giữ nguyên phần của cụ Lê Văn Hưu, sau đó nếu sửa chữa, thêm bớt, có ý kiến khác thì viết riêng sang bên cạnh, hoặc xuống dưới, hoặc viết cuốn sách lịch sử khác.
Điều thứ hai, là cụ Ngô Sĩ Liên không nói rõ chỗ nào cụ sửa lại, thêm bớt, chỗ nào là nguyên văn của cụ Lê Văn Hưu, chỉ may mắn có 30 đoạn cụ Liên viết “Lê Văn Hưu viết”, chỉ những chỗ đó ta biết chắc là do cụ Lê Văn Hưu viết.
Đó là sai lầm lịch sử lớn nhất của cụ Ngô Sĩ Liên.
Ngoài ra, khi cụ Ngô Sĩ Liên viết thêm các phần bình luận, ý kiến của cụ vào các sự kiện lịch sử, thì không phải ý kiến nào của cụ Ngô Sĩ Liên cũng là hay. Đôi khi ý kiến của cụ Ngô Sĩ Liên cũng khá ngây ngô, kỳ quặc, như cụ Liên nói về truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là “quái đản” như nói ở trên.
-Cụ Vũ Quỳnh, sinh năm 1450, mất năm 1497, quê ở xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Cụ Vũ Quỳnh biên soạn sách Đại Việt Thông Giám Thông Khảo.
-Cụ Phạm Công Trứ, sinh năm 1600. Cụ Trứ mất năm 1675, quê ở làng Liêu Xuyên, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương.
-Cụ Lê Hi, sinh năm 1646, sau cụ Ngô Sĩ Liên hơn 200 năm, mất năm 1702, quê ở xã Thạch Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, quê cùng huyện với cụ Lê Văn Hưu.
-Cụ Lê Tung không trực tiếp tham gia biên soạn bộ ĐVSKTT, nhưng cụ viết lời giới thiệu, với tên gọi Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận, rất có giá trị. Cụ Lê Tung quê ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, đỗ tiến sĩ năm 1484.
Nhưng tất cả các cụ nêu trên đều có một nguyên tắc giống cụ Lê Văn Hưu, là không viết động chạm nhiều lắm đến một số sự thật lịch sử của triều đại mà các cụ đang sống.
Bởi vì một lẽ dễ hiểu, nếu viết động chạm, thì có thể sách của các cụ không được sử dụng, không được xuất bản, và có khi sự an toàn của các cụ cũng không được bảo đảm.
Ví dụ vụ án oan của cụ Nguyễn Trãi xảy ra năm 1442, sử gọi là vụ án oan Lệ Chi Viên-hay còn gọi vụ án Vườn vải, vụ án xảy ra ở vườn vải thiều, tỉnh Hải Dương. Cụ Nguyễn Trãi được đánh giá là nhà văn hóa vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử hơn 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam ta. Đây là vụ án oan lớn nhất trong lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam ta, cụ Nguyễn Trãi bị vu oan là có âm mưu giết vua Lê Thái Tông, nên cụ Nguyễn Trãi bị xử tru di tam tộc, cả cụ Nguyễn Trãi, và 3 họ của cụ, từ đứa bé mới ẵm ngửa, đến cụ Nguyễn Trãi 62 tuổi râu tóc bạc phơ, đều bị chém đầu vào năm 1442, là năm mà vua Lê Thánh Tông được sinh ra, và năm mà cụ Ngô Sĩ Liên thi đỗ tiến sĩ.
Thế mà bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của cụ Ngô Sĩ Liên chỉ viết về vụ án oan này có 7 dòng sơ sài.
Bởi vậy, tránh viết động chạm đến thời mình đang sống có lẽ là nguyên tắc chung của những nhà viết sử, xưa cũng như nay.
Thế nhưng văn hóa Việt Nam ta nói rằng “Ăn cây nào, rào cây nấy”, thì tức là ta sống ở chính thể nào, thì phải bảo vệ chính thể ấy.
Tôi nghĩ rằng đó là văn hóa hay, nhân bản.
Cũng giống như chúng ta sống trong gia đình, bố mẹ chúng ta đôi khi cũng có cái sai nào đó, phận con cái chúng ta không thể cứ lấy cái lí lẽ khách quan, vô tư, đúng-sai để mà chửi bố mẹ chúng ta, là ông sai cái này, bà sai cái kia. Cái văn hóa khách quan theo kiểu phương Tây đó, cạn tàu-ráo máng đó, không phải là văn hóa Việt Nam ta.
Văn hóa Việt Nam ta là văn hóa trọng cái tình, trăm cái lí không bằng tí cái tình.
Hơn nữa, người Việt Nam ta còn có câu “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”. Thế thì nói cái xấu ít thôi, nói cái tốt nhiều lên, đó cũng là lẽ thường tình về viết sử của mọi thời đại, và mọi quốc gia.
Mỗi chúng ta hãy chủ yếu nhìn thấy cái tốt của nhau, chứ đừng chỉ nhìn cái cái xấu của nhau, đó là văn hóa độ lượng, nhân bản, rất Việt Nam.
Thế nhưng chúng ta không được đổi trắng thay đen, nói phải thành trái, lòng dân ai oán mà cứ nói “tốt, tốt”, thì chỉ làm cho triều đình sớm sụp đổ.
Về việc phê phán cái sai, người Việt Nam ta cũng có câu rất hay “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Thế cho nên nhà viết sử, khi viết về cái sai nào đó của triều đình, thì cũng nên nói nhẹ nhàng, tế nhị, để cho vua quan nghe được, chấp nhận được, chứ đừng nói theo kiểu đạp đổ, “cạn tàu, ráo máng”. Cách phê phán các sự kiện lịch sử theo kiểu nói cho hả giận không phải là cách làm sử hay.
Về nội dung bộ sách ĐVSKTT, thì như cụ Trần Trọng Kim đã nhận xét “lối làm sử của ta học theo lối biên niên của Tàu”, là cách viết theo ngày tháng năm, ngày tháng năm nào có sự kiện quan trọng gì xảy ra thì chép lại, giống như nhật ký, mà chủ yếu là chép các sự kiện liên quan đến vua, chứ không phải các sự kiện liên quan đến dân.
Còn các sự kiện lịch sử liên quan đến nhau như thế nào thì hầu như không viết.
Cách viết sử của ta thời xưa rất nghèo nàn, ít có giá trị lịch sử. Ví dụ cụ Ngô Thì Sĩ nhận xét sử thời nhà Lý viết tới gần 50 lần về các điềm lành, ví dụ “chim sẻ trắng đậu ở cung cấm”, viết gần 30 chục lần về các việc của Phật. Các sự kiện như nhật thực, nguyệt thực, rồi ai đó dâng hươu trắng, chim trắng,,,thì được ghi chép lại nhiều vô kể. Còn về kinh tế, văn hóa, xã hội, quần áo, nhà cửa, kiến trúc, đồ ăn, thức uống, vũ khí, giáo dục, bộ máy Nhà nước, phong tục, tập quán, lễ hội,,,, thì hầu như các cụ đó không viết gì cả.
Nên đọc cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, chúng ta không biết nhiều lắm về đời sống xã hội của người dân Việt Nam ta thời đó như thế nào cả.
Đọc bộ ĐVSKTT chủ yếu biết được ngày nào, tháng nào, năm nào vua làm gì, nói gì, nghĩ gì, ai dâng biếu vua cái gì, nhật thực, nguyệt thực xảy ra ngày nào,,,. Còn dân làm gì, nói gì, nghĩ gì, sống, sinh hoạt như thế nào thì chúng ta biết rất ít.
2-Bộ sách Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim.
Bộ Việt Nam Sử Lược do cụ Trần Trọng Kim (1882-1953) viết và xuất bản lần đầu tiên năm 1921. Cụ Trần Trọng Kim quê ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tốt nghiệp trường thông ngôn tiếng Pháp năm 1904. Sau đó, cụ Kim cùng cụ Nguyễn Văn Vĩnh sang Pháp học ở Lyon trong 7 năm, từ năm 1904, đến năm 1911, rồi cụ Kim về nước, dạy học, viết sách ngữ pháp tiếng Việt, tham dự hội đồng biên soạn sách giáo khoa cho nền giáo dục Việt Nam, và viết cuốn Việt Nam Sử Lược nổi tiếng, và nhiều cuốn sách nổi tiếng khác.
(Cụ Nguyễn Văn Vĩnh cùng học lớp phiên dịch viên với cụ Kim là người đầu tiên dịch cuốn tiểu thuyết Những Người Khốn Khổ của Victor Huygo sang tiếng Việt, và là bố của nhà thơ trẻ Nguyễn Nhược Pháp. Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là tác giả của bài thơ tình bất hủ “Em đi chùa Hương”:
“Hôm nay đi chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương,
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương,,,”).
Cách viết sử của cụ Trần Trọng Kim hoàn toàn khác với cách viết sử của cụ Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên.
Cụ Trần Trọng Kim viết sử theo câu chuyện, có dẫn giải, phân tích, nêu lên các mối quan hệ của các sự kiện, có đầu, có đuôi, và viết rõ tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa từng thời kỳ, chứ không viết theo kiểu liệt kê thời gian theo kiểu nhật ký lịch sử như cụ Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên.
Cách viết sử của cụ Trần Trọng Kim đơn giản, dễ hiểu, và gần như đọc một cuốn truyện về lịch sử Việt Nam, rất hấp dẫn, lôi cuốn.
Nhờ cuốn sách lịch sử này, và các tác phẩm giáo dục khác, mà cụ Trần Trọng Kim trở thành một trong những vị trí thức nổi tiếng nhất Việt Nam ta thời trước Cách mạng tháng 8.
Thế cho nên, năm 1945, ngày 17 tháng 4 năm 1945, cụ Trần Trọng Kim được vua Bảo Đại mời đứng ra thành lập Chính phủ dân chủ nghị viện đầu tiên trong lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam, và cụ Trần Trọng Kim trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta.
Chính phủ cụ Trần Trọng Kim được cho là Chính phủ thân Nhật, vì quân đội Nhật khi đó ủng hộ cụ Trần Trọng Kim.
Cụ Trần Trọng Kim thì giải thích là Chính phủ của cụ tranh thủ sự ủng hộ của bất cứ ai để giành độc lập cho Việt Nam.
Chỉ có một điều lạ khó hiểu nhất, đó là Thủ tướng Trần Trọng Kim chỉ đạo không cho Chính phủ thành lập quân đội riêng.
Thế tức là khi đó nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc Việt Nam phải nhờ vào quân đội Nhật.
Đây chính là sai lầm nghiêm trọng nhất của Thủ tướng Trần Trọng Kim, khiến cho dư luận đặt câu hỏi về tính hợp pháp, và sự vững mạnh của Chính phủ Trần Trọng Kim.
Thủ tướng Trần Trọng Kim nói cụ muốn xây dựng một nước Việt Nam độc lập, nhưng không có quân đội riêng của mình, thì thử hỏi có thể có độc lập riêng được không? Lời nói và việc làm của Thủ tướng Trần Trọng Kim thật là mâu thuẫn với nhau.
Thế nhưng có một điều tốt là Chính phủ cụ Trần Trọng Kim bao gồm các vị trí thức tài giỏi và nổi tiếng ở Việt Nam như luật sư Phan Anh, luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư Trần Văn Chương, giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Khâm sai Đại thần Phan Kế Toại,,.Tất cả những vị trí thức này đều là những vị trí thức nổi tiếng ở Việt Nam, và đều mong muốn độc lập cho Việt Nam, giống như Chính phủ của cụ Hồ Chí Minh sau đó, và nhiều vị đã tham gia Chính phủ cụ Hồ Chí Minh sau này, như luật sư Phan Anh, Khâm sai Phan Kế Toại,,,.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, quân đội Nhật đầu hàng đồng minh, Cách mạng tháng 8 nổ ra, Việt Minh nắm chính quyền, Chính phủ cụ Trần Trọng Kim từ chức vào ngày 22 tháng 8 năm 1945, sau 4 tháng tồn tại.
Cụ Thủ tướng Trần Trọng Kim đã không chỉ đạo Chính phủ của cụ chống lại Việt Minh, tránh đổ máu trong Cách mạng tháng 8 là một điều tốt, cần được ghi nhận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, đã sử dụng lại một số các vị trí thức nổi tiếng trong Chính phủ cụ Trần Trọng Kim. Chẳng hạn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm luật sư Phan Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau đó làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, cụ Khâm sai đại thần Phan Kế Toại làm Phó Thủ tướng,,,.
Điều đó cho thấy Thủ tướng Trần Trọng Kim ngoài tài viết sử, viết sách ngữ pháp tiếng Việt, còn biết lựa chọn người tài ra gánh việc nước. Còn về đường lối lãnh đạo đất nước thì quả là cụ Trần Trọng Kim không có khả năng gì cả.
Năm 2016, Nhà xuất bản Kim Đồng-Hà Nội đã xuất bản cuốn sách “Những người thày trong sử Việt Nam”. Ở phần Trần Trọng Kim, cuốn sách này đã đưa ra lời nhận xét rất hay về cụ Trần Trọng Kim: “,,,hầu hết các trí thức từng tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim về sau đều tham gia cách mạng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,,,”.
Chúng ta nên ghi nhận công lao to lớn của cụ Trần Trọng Kim trong lịch sử Việt Nam ta.///