
W.Minh Tuấn
Năm 1990, tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn công tác vài tháng. Khi vào Sài Gòn được vài hôm, một số đồng nghiệp ở các báo bạn ở Sài Gòn rủ tôi đến quán Cây Dừa để nghe câu chuyện của bà Tư Hương, chủ quán Cây Dừa.
Khi đó quán Cây Dừa ở số 54 phố Lê Lai, cách không xa chợ Bến Thành. Bây giờ quán Cây Dừa đã chuyển về số 154 Lê Lai, cách nơi cũ đúng bằng 100 số nhà. Còn ở số 54 Lê Lai, thì bây giờ là khách sạn New World Hotel thuộc loại hiện đại nhất Sài Gòn hiện nay.
Quán Cây Dừa là một quán cơm Việt Nam, cỡ trên quán cơm bình dân một chút. Phía trước quán có mấy cây dừa rất xanh tốt. Ở đây có các món ăn rất nổi tiếng như cá kho tộ, lẩu mắm, canh khổ qua, cà muối,,,. Nhưng đặc biệt hơn cả là tất cả những người phục vụ, đầu bếp của quán này chỉ gồm những người vô gia cư, từ trẻ em, đến người già.
Bà Trần Thị Hương- dì Tư Hương, là chủ quán này.
Bà Tư Hương mở quán Cây Dừa từ những năm 1964-1965, khi chiến tranh Việt Nam đang rất ác liệt. Bà Tư Hương mở quán ăn này với mục đích giúp các sinh viên nghèo không có nhiều tiền, và giúp các trẻ em đường phố, vô gia cư, và cả những người già không nơi nương tựa.
Bà Tư Hương thu nhận trẻ em đường phố, người già cô đơn, dạy nghề cho họ, và tạo việc làm cho họ. Quán Cây Dừa vừa là quán ăn, vừa là Nhà Tình Thương, nơi trú ngụ cho nhiều trẻ em đường phố, người già cô đơn.
Sau ngày giải phóng năm 1975, bà Tư Hương vẫn duy trì quán Cây Dừa, vì xã hội nào cũng có những người có hoàn cảnh khó khăn, éo le, cần được giúp đỡ. Ban ngày quán mở cửa phục vụ khách hàng, ban đêm, khi quán đóng cửa, bàn ghế được dẹp sang một bên, là chỗ ngủ cho mọi người.
Năm 1990, khi tôi đến quán Cây Dừa, quán này đang cưu mang khoảng trên 30 trẻ em và người già. Khi đó quán khá to, tầng 1 để làm quá ăn, nơi phục vụ khách hàng, tầng 2 để ở, ngủ, nơi học hành cho trẻ em. Bà Tư Hương mời thầy giáo đến quán, dạy học cho các em, dạy tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, dạy nhạc, dạy nhảy múa, dạy hát.
Một số em được bà Tư Hương chi tiền để đi học ở các trường. Rất nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế đã đến thăm quán, và nhiều tổ chức nhân đạo, nhiều nhà hảo tâm nước ngoài đã nhận giúp một số cháu nhỏ, thanh niên của Quán Tình Thương Cây Dừa, đưa đi học, định cư, kết hôn, có việc làm ở nước ngoài.
Nhiều “Con” của Dì Tư Hương hiện đang học tập, định cư ở Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada,,,Nhiều cuộc hôn nhân trong nước, ngoài nước của các em ở Nhà tình thương quán Cây Dừa đã được tác thành.
Thế nhưng năm 1990, khi tôi đến gặp bà Tư Hương, thì quán Cây Dừa đang được chính quyền thành phố Hồ Chí Minh vận động di chuyển đi chỗ khác, để lấy chỗ xây khách sạn New World Hotel.
Bà Tư Hương không chống lại chủ trương xây dựng khách sạn Neww World Holtel, nhưng bà Tư Hương và các “con” bà, và các nhà báo có thiện cảm với Nhà tình thương Cây Dừa thì chống lại chủ trương di dời quán Cây Dừa- Nhà tình thương Cây Dừa, và cũng là nơi cư ngụ của các trẻ em vô gia cư, người già cô đơn trong quán Cây Dừa.
Khi đó báo chí đều lên tiếng ủng hộ bà Tư Hương, phê phán chủ trương di dời quán của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh. Chủ trương này do ông Dương Văn Đầy, giám đốc Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh đề xuất, và kiên quyết tìm mọi cách để thực hiện.
Trong chiến tranh Việt Nam, ông Dương Văn Đầy hoạt động trong phong trào sinh viên chống Mỹ và chống chính quyền Sài Gòn cũ. Và bây giờ, sau khi chiến tranh kết thúc, ông Dương Văn Đầy là giám đốc một Sở rất béo bở, chủ yếu quan hệ với nước ngoài.
Làm sao mà từ một thanh niên hăng say, dũng cảm đấu tranh chống can thiệp Mỹ, chống bù nhìn Thiệu-Kỳ-Khiêm, mà nay, khi đã giành được chính quyền, đã có quyền lực, thì thay đổi nhanh thế, trở thành kẻ có quyền uy, thét ra lửa, mửa ra khói, coi đồng tiền cao hơn tình thương.
Quan điểm của báo chí Sài Gòn, và báo chí Việt Nam nói chung là rất ủng hộ chủ trương khích lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, rất ủng hộ dự án xây khách sạn New World ở Sài Gòn.
New World là một tập đoàn khách sạn lớn trên thế giới, có trụ sở ở Hồng kông.
Nhưng vị trí xây khách sạn thì có nhiều ý kiến khác nhau. Quán Cây Dừa nằm ở vị trí rất trung tâm của Sài Gòn, rất nhiều người “thèm rỏ dãi” vị trí của quán. Bà Tư Hương nói là khi đang còn chiến tranh, quận trưởng quận 5 của chính quyền Sài Gòn cũ cũng đã nhiều lần nhòm ngó vị trí của quán Cây Dừa, nhiều lần muốn bứng quán đi chỗ khác. Nhưng vì sợ búa rìu dư luận, và vì bà Tư Hương đấu tranh rất dữ, nên tên trưởng quận này đành phải bỏ kế hoạch di dời quán.
Sau ngày giải phóng miền Nam, bà Tư Hương không đi di tản nước ngoài, mặc dù 2 con gái của bà đã đi di tản và định cư ở Mỹ. Bà Tư Hương nói bà muốn ở lại với các “con” của bà, những trẻ em và người già không nơi nương tựa. Bà muốn tiếp tục công việc nhân đạo, từ thiện của bà.
Lần đầu tiên gặp bà Tư Hương, năm 1990, tôi có thiện cảm ngay với bà Tư.
Khi đó bà Tư đã hơn 60 tuổi, trông rất phúc hậu, đeo kính cận, người đẫy đà, khỏe mạnh, giọng nói Nam Bộ rất dễ nghe. Và nhất là bà Tư luôn luôn cười.
Tôi nghĩ thầm “bà má này có lẽ chẳng bao giờ bi quan, khuất phục trước những phũ phàng của cuộc sống”.
Tôi cũng rất ngạc nhiên khi gặp ca sĩ Quang Hưng ở nhà bà Tư Hương. Tôi chưa từng biết mặt ca sĩ Quang Hưng, chỉ nghe tên ông, và từng nhiều lần nghe giọng hát của ông qua làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong chiến tranh Việt Nam, ông Quang Hưng là ca sĩ chiến trường. Ông cùng nhiều ca sĩ khác ra tận chiến trường để hát phục phụ bộ đội, với những bài hát “tiếng hát át tiếng bom”.
Rất nhiều lần đang biểu diễn cho bộ đội nghe, máy bay Mỹ đến ném bom, bộ đội, ca sĩ cùng chui xuống hầm tránh bom. Khi máy bay Mỹ bay qua rồi, bộ đội, ca sĩ lại chui ở hầm lên, ca sĩ đứng ngay trên miệng hố bom, hát phục vụ bộ đội.
Đó chính là hình ảnh “tiếng hát át tiếng bom” thật hào hùng trong chiến tranh Việt Nam. Ca sĩ Quang Hưng là một trong những ca sĩ-chiến sĩ đó, với những bài hát rất nổi tiếng như “Chiếc gậy Trường Sơn”, “Hò kéo pháo”, “Nổi lửa lên em”,,,.
Giọng hát của ông rất khỏe.
Sau khi miền Nam được giải phóng, ca sĩ Quang Hưng vào Sài Gòn biểu diễn, và đến quán Cây Dừa ăn cơm nhiều lần. Thế rồi ca sĩ và bà Tư Hương quen nhau. Rất cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của bà Tư Hương, nên ca sĩ Quang Hưng nhận bà Tư Hương là chị nuôi, bà Tư Hương nhận ca sĩ Quang Hưng là em nuôi.
Năm 1990, khi chúng tôi đến quán Cây Dừa, bà Tư Hương mời chúng tôi lên phòng khách ở tầng 2 của quán Cây Dừa. Một người đàn ông người cao, xương xương ở phòng khách đón chúng tôi. Bà Tư Hương giới thiệu đây là ca sĩ Quang Hưng.
Tôi cảm thấy rất vui và vih dự được lần đầu tiên gặp trực tiếp ca sỹ Quang Hưng nổi tiếng thời chiến tranh Việt Nam.
“-Bây giờ thì chẳng còn lòng dạ nào để hát nữa, các cậu ạ”, ca sĩ Quang Hưng nói luôn vào vấn đề.
“- Tớ đang tập trung vào công việc đấu tranh của chị Tư đây. Nếu các nhà báo các cậu thấy đúng, thì xin có tiếng nói ủng hộ.”
Chúng tôi im lặng ngồi nghe ca sĩ Quang Hưng trình bày tất cả các lý lẽ, cơ sở pháp lý của quán Tình thương Cây Dừa. Ca sĩ Quang Hưng nói đại ý:
“-Chúng tôi không chống lại chủ trương xây khách sạn của thành phố. Nhưng đây là khách sạn, không phải là sân bay, bến cảng, hay công trình phúc lợi tối quan trọng gì cả. Vị trí nhà hàng Tình thương Cây Dừa cũng không phải là vị trí chiến lược tối quan trọng cho an ninh quốc gia. Di dời nhà hàng Cây Dừa chỉ để xây một khách sạn, chứ không phải để xây trạm tên lửa bảo vệ tổ quốc. Vậy thì có rất nhiều chỗ để xây khách sạn, tại sao cứ phải đòi bứng cái nhà hàng tội nghiệp này đi? Lùi lại một chút cái khách sạn này xuống phía Nam, chừa cái nhà hàng này ra thì có sao đâu? Thế nhưng mà một số người có thế lực ở thành phố Hồ Chí Minh cho là cái nhà hàng này ở đây sẽ làm xấu cảnh quan của khách sạn, nên họ muốn bứng đi. Chắc gì cái khách sạn to đẹp kia đã đẹp bằng cái nhà hàng tình thương này?
Khách sạn có thể có nhiều, nhưng nhà hàng tình thương quán Cây Dừa, với bề dày hơn 20 năm, với bao kỷ niệm, bao nhiêu thân phận bị xã hội bỏ rơi, được nhà hàng Tình thương này nuôi nấng, dạy dỗ nên người, thì thử hỏi có cái gì đẹp hơn?”.
Chúng tôi thực sự bị lý lẽ của ca sĩ Quang Hưng thuyết phục. Phải chăng xã hội Việt Nam, sau khi chiến tranh kết thúc, là một xã hội của đồng tiền, không phải là xã hội của tình người đầm ấm nữa rồi?
Phải chăng là như vậy? Nhưng thực sự không phải như vậy.
Đừng nói xã hội một cách chung chung như vậy.
Người dân Việt Nam nói chung vẫn là những người trọng danh dự, nhân phẩm, trọng tình thương đồng loại, trọng tình người. Nhưng một số kẻ có chức có quyền, nhân danh đảng, nhà nước, thì không coi trọng cái giá trị nhân bản ấy, mà chỉ coi trọng đồng tiền. Với những con người đó, những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã nhường chỗ cho lý tưởng của đồng tiền.
Bây giờ, nhìn lại việc sân bay Tân Sơn Nhất bị ngập nước năm 2016, do xây dựng sân golf ngay cạnh sân bay, càng thấy rõ cái “lý tưởng xã hội chủ nghĩa” chỉ là một khẩu hiệu mĩ miều làm giàu cho các Nhóm lợi ích.
Ở quán Cây Dừa, tôi đã gặp và nói chuyện với rất nhiều em đang được bà Tư Hương nuôi nấng, dạy dỗ.
Một em được bà Tư Hương nhặt ở trước cửa Nhà Thờ Đức Bà, ai đó đã bỏ rơi em ở đó. Khi tôi gặp em, em đó đã khá lớn, đã đi học, và là một đứa trẻ ngoan được bà Tư rất cưng chiều.
Tôi đã gặp Linh, cô gái con của một gia đình nghèo ở miền lục tỉnh, không có đủ tiền nuôi con ăn học, bà Tư đã nhận cả 2 chị em về nuôi từ khi còn nhỏ.
Bây giờ Linh đã là một cô gái rất xinh đẹp, đang được bà Tư cho học nhạc và tiếng Anh, và là một cô phục vụ rất được khách hàng yêu mến. (Đầu năm 2004, tôi về Sài Gòn thăm bà Tư Hương, bà nói Linh đã lấy chồng là Việt Kiều Canada, và đã sang Canada định cư).
Tôi đã gặp Kiều Ái, một cô gái có nước da ngăm ngăm đen, rất thông minh. Kiều Ái phụ trách công việc hàng tuần đi phát quà cho các bệnh nhân nghèo ở bệnh viện Ung Bướu Sài Gòn. Một buổi tôi đi theo Kiều Ái vào Bệnh viện Ung Bướu.
Kiều Ái tay cầm một cái túi to, đi đến từng giường của bệnh nhân nghèo, phát quà, phát tiền cho họ. Tất cả họ đều biết đây là quà của quán Cây Dừa.
Chỉ vài tháng sau, tôi được biết Kiều Ái cùng vài em nhỏ khác của quán Cây Dừa đã được bà Tư Hương lo cho đi Mỹ du học.
Tôi cũng đi thăm một người bệnh nhân bệnh nặng, nhà ở quận 4, không có tiền nằm bệnh viện. Bà Tư đã mời bác sĩ Kim đến chữa bệnh cho bệnh nhân này tại nhà, và thường xuyên cho người đến chăm sóc người này. Bác sĩ Kim trước kia cũng chính là một em bé vô gia cư, đã được bà Tư nhận về nuôi, rồi cho ăn học, rồi được đi học bác sĩ, trở thành bác sĩ giỏi, đã có gia đình, hiện làm việc trong một bệnh bệnh viện nổi tiếng ở Sài Gòn. Và bây giờ bác sĩ Kim lại nối nghiệp bà Tư, tranh thủ lúc thời gian rỗi để đi chữa bệnh từ thiện cứu giúp người nghèo không lấy tiền.
Đó là câu chuyện của năm 1990. Sau đó, khi ra Hà Nội, tôi đã viết một bài báo lên tiếng bênh vực quán Cây Dừa, đề nghị thành phố Hồ Chí minh không nên di dời quán Cây Dừa.
Để quán Cây Dừa tồn tại ngay trung tâm Sài Gòn sẽ như là một bằng chứng về một xã hội tôn trọng tình thương, nhân phẩm, lẽ phải, một bằng chứng về một xã hội có đạo đức.
Và nếu như sau này có một khách sạn New World nào đó mọc lên ở ngay cạnh quán Cây Dừa nhỏ bé, khiêm tốn, thì rất có thể du khách sẽ hàng ngày đến quán để vừa thưởng thức các món ăn Việt Nam, vừa tham quan, tìm hiểu quán Tình thương Cây Dừa, tiếp xúc với những trẻ em, người già mà một thời đã không nơi nương tựa, nay đã có mái ấm tình thương che chở, để thấy được một xã hội Việt Nam đang phát triển nhưng vẫn tôn trọng tình người, một xã hội mà không phải đồng tiền là trên hết.
Liệu có điểm du lịch nào hấp dẫn hơn? Liệu có điểm du lịch nào đẹp hơn? Liệu có điểm du lịch nào thiêng liêng hơn?
Thế nhưng chỉ vài tháng sau, cả ca sĩ Quang Hưng, cả bà Tư Hương cùng mấy chục người của nhà hàng Cây Dừa 54 Lê Lai, cả hàng chục nhà báo đã cất công viết bài ủng hộ quán Cây Dừa, cả dư luận xã hội ủng hộ quán Tình Thương Cây Dừa, đều thua ông Dương Văn Đầy, giám đốc Sở Du Lịch thành phố Hồ Chí Minh.
Quán Cây Dừa bị cưỡng chế phá bỏ, bà Tư Hương từ chối không nhận một đồng tiền bồi thường di chuyển nào.
Bà Tư Hương di chuyển quán Cây Dừa về địa điểm số 154 cùng phố Lê lai, cũng là một mảnh đất bà Tư mua từ hồi trước giải phóng. Quán Cây Dừa mới mọc lên ở đây, không thể đẹp, khang trang như quán Cây Dừa cũ. Và nhất là không thể chứa đựng được bao nhiêu kỷ niệm, dấu ấn của thời gian, không thể chứa đựng biết bao thay đổi của thời cuộc.
Có lần tôi vào thăm bà Tư Hương ở quán Cây Dừa mới, bà cười nói với tôi
-“Con à, (bà gọi tôi là con), ngày xưa, thời ông Thiệu, họ cũng đã tính bứng má đi nhiều lần, mà không bứng nổi. Thế mà thời nay, chính quyền mới họ bứng nổi đó con à.” Cách đây mấy năm, tôi nghe nói ông Dương Văn Đầy, người quyết tâm di dời bằng được quán Cây Dừa, đã đột nhiên lăn đùng ra chết. Nghe nói ông ấy đang đứng trên diễn đàn một hội nghị về du lịch, đang diễn thuyết gì đó về giữ gìn bản sắc văn hóa, dân tộc trong phát triển du lịch, thì đột nhiên gục xuống chết, ngay tại bục diễn đàn. Thế là đã ra đi một người một thời là anh hùng trong phong trào “sinh viên chống Mỹ-Ngụy” xưa. Ông ấy bị xuất huyết não hay gì đó. Cầu cho ông ấy yên nghỉ dưới suối vàng với cái bản sắc dân tộc của ông ấy.
Sau đó mỗi lần vào Sài Gòn, đi qua khách sạn New World ở đường Lê Lai, cái khách sạn to lừng lững, rất đẹp ấy, tôi lại bùi ngùi nhớ lại quán Cây Dừa xưa. Cái quán Cây Dừa đó, hồi cải tạo tư bản tư doanh năm 1978, sau khi chiến tranh kết thúc 3 năm, cũng đã từng gặp “hạn”. Khi đó, nhà hàng Cây Dừa bị buộc phải vào “quốc doanh”, giống như câu chuyện của bố chị Lưu Thanh Châu ở Cần Thơ mà tôi đã nói ở phần trên.
Bà Tư Hương là chủ nhà hàng, bị trở thành “kỹ thuật viên”, chuyên lo về kỹ thuật nấu nướng. Còn cửa hàng trưởng, kế toán trưởng, cửa hàng phó, thủ quỹ, bí thư chi bộ, ,,,do nhà nước cử đến.
Các chức danh đó trước kia một mình bà Tư Hương đảm nhiệm, công việc chạy êm ro. Nay thì có đến ít nhất 4 người của nhà nước cai quản, nhưng cửa hàng thì làm ăn thua lỗ, rồi nội bộ lục đục, mất đoàn kết, suốt ngày họp , rồi phát động các phong trào thi đua để thúc đẩy kinh doanh, nhưng thua lỗ vẫn hoàn thua lỗ.
Các “con” của bà Tư Hương lại đứng trước nguy cơ đi lang lang xin ăn, nhặt rác kiếm sống.
Cũng may là “công cuộc cải tạo tư bản tư doanh” chỉ kéo dài một thời gian dăm bảy năm, rồi quán Cây Dừa lại được trả về cho bà Tư Hương. Từ đó công việc kinh doanh được phục hồi và phát triển. Bây giờ quán Cây Dừa về địa điểm mới, khách khứa cũng thấy ra vào tấp nập, nhưng tôi vẫn cảm thấy nó không được như ngày xưa. Có một cái gì đó trống vắng, một cái gì đó rất khó hiểu khiến cho tôi cảm thấy quán Cây Dừa không còn được như xưa. Dĩ nhiên rồi, cái bát vỡ hàn lại thì không thể lành lặn được như trước.
Hồi đầu năm 1998, bà Tư Hương ra Hà Nội. Bà ở tại nhà ca sĩ Quang Hưng. Tôi cùng em trai tôi là phóng viên báo Lao Động đã đến gặp bà Tư Hương ở nhà ca sĩ Quang Hưng, ở Cầu Giấy, trong khu vực gần trường Múa Việt Nam.
Bà rất vui khi gặp lại chúng tôi ở Hà Nội. Bà Tư Hương tặng chúng tôi cuốn hồi ký do bà tự viết, mới được Nhà xuất bản Lao động xuất bản, với nhan đề “Bất hạnh không của riêng ai”. Cuốn hồi ký này bà Tư Hương kể lại cả cuộc đời làm từ thiện của bà, trong chiến tranh Việt Nam, đến sau chiến tranh Việt Nam, cho đến thời gian quán Cây Dừa bị phá để xây khách sạn New World. Một cuốn sách thật là hay.
Trong cuốn hồi ký đó có trích đăng lại rất nhiều bài báo đã ủng hộ quán Cây Dừa trong cuộc đấu tranh không cân sức với bộ máy công quyền để bảo vệ quán Cây Dừa, trong đó có trích đăng cả bài báo của tôi trên báo Đại Đoàn Kết.
Chuyến đi ra Hà Nội đó tôi nghe nói là để bà dự cuộc phỏng vấn ở Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, để làm thủ tục đi Mỹ chơi, theo lời mời của 2 con gái bà.
Tôi cũng nghe nói Đại sứ quán Mỹ đã từ chối cấp visa cho bà Tư Hương, với lý do bà đã già rồi, đi Mỹ chẳng để làm gì. Đấy, cái nước Mỹ tự cho là nhân quyền, dân chủ nhất thế giới ấy, nhưng đã từ chối cấp visa cho bà Tư Hương, mặc dù bà đi thăm 2 con gái bà định cư ở Mỹ.
Tôi tự hỏi nếu nhân viên Đại sứ quán Mỹ biết được câu chuyện quán Cây Dừa của bà Tư Hương, thì họ sẽ có thái độ như thế nào nhỉ?
Chính phủ Mỹ không nên trách vì sao có nhiều người trên thế giới rất ghét Mỹ.
Bà Tư Hương tế nhị không nói đến lý do bà không đi Mỹ nữa. Bà không muốn nói xấu một đất nước mà các con cháu của bà, và nhiều đứa trẻ trong quán Tình Thương của bà đang định cư, sinh sống, học tập.
Tháng 3 năm 2004, tôi về Việt Nam thăm gia đình, và vào Sài Gòn. Tôi đến thăm lại quán Cây Dừa ở chỗ mới, số 154 Lê Lai.
Quán Cây Dừa bây giờ có vẻ vắng khách. Bà Tư Hương đang nằm ở võng phía trong quán.
Tôi đến, ngồi xuống bên võng, chào:
-“Chào má, má có nhận ra con không?”.
Bà Tư Hương đã già rồi, đã bước sang tuổi 80 rồi, mắt kém, sức khỏe đã yếu đi nhiều. Bà Tư Hương nhìn tôi, và nói không nhận ra ai.
-Không, anh là ai? Tôi không nhận ra.
Tôi nói tên:
“-Con, Minh Tuấn đây, Minh Tuấn báo Đại Đoàn Kết đây”. Lúc này thì má Tư nhận ra tôi.
-“Trời ơi, Minh Tuấn đó con? Minh Tuấn , Minh Quang đó hả con?”. Minh Quang là em trai tôi, khi đó là phóng viên báo Lao Động
Tôi và má ra ngồi ở cái bàn phía ngoài quán. Tôi ái ngại nhìn má Tư Hương, và tự hỏi, liệu đến bao giờ má sẽ nhận được tiền đền bù di chuyển cho quán Cây Dừa ngày xưa?
Nhưng má Tư Hương có vẻ rất vui, nói với tôi là thủ tướng Phan Văn Khải đã biết đến vụ quán Cây Dừa của má, và đã hứa sẽ trả tiền đền bù đất cho má Tư. Theo má Tư Hương, tập đoàn New World Hongkong đã đồng ý trả tiền đền bù đất cho má là 1,2 triệu đôla, nhưng công ty du lịch Sài Gòn không muốn đền bù cho má tất cả số tiền này.
Má Tư Hương đưa cho tôi xem một số đơn từ má mới viết hồi tháng 2 và tháng 3 năm 2004, gửi thủ tướng Phan Văn Khải và các quý cấp lãnh đạo, hỏi về số tiền đền bù đất 1,2 triệu đôla bây giờ ở đâu? Khi nào thì trả cho má?
Má Tư Hương nói nếu nhận được số tiền bồi thường giải tỏa này, má sẽ dùng để mở rộng và phát triển các nhà tình thương hơn nữa, để cho xã hội này bớt đi được những kiếp người bất hạnh, vô gia cư.
Bây giờ nghe nói số tiền đền bù lên đến 5 triệu USD.
Trong quán Cây Dừa ở chỗ mới, tôi thấy treo ảnh ông tiến sĩ Henry Kissinger, với dòng chữ: Kissinger Associates INC, 350 park Avenue New York, New York 10022-6022.
Bà Tư Hương nói ông tiến sĩ Kissinger đã đọc được, trong một thư viện ở Mỹ, cuốn sách “Bất hạnh không của riêng ai” của bà, mà đã được dịch sang tiếng Anh. Sau khi đọc xong cuốn sách, ông tiến sĩ Kissinger đã gửi tấm ảnh và những lời cảm thông với số phận quán Cây Dừa. Bà Tư Hương cũng tặng tôi cuốn “Bất hạnh không của riêng ai” được tái bản năm 2003, có in bổ sung nhiều ý kiến bạn đọc trong ngoài nước nói về cuốn sách.
Khi chia tay, tôi nói với bà Tư Hương là tôi không còn làm việc ở báo Đại Đoàn Kết nữa, tôi đã sang Nhật định cư.
Bà rất vui nói lời chúc tôi xây dựng cuộc sống mới ở đất nước Mặt Trời Mọc. “Nhớ liên lạc với má nghe con”, má Tư Hương nói.
Trong cuộc đời làm từ thiện của bà, bà Tư Hương đã giúp cho 312 người, vừa trẻ mồ côi, vừa bạn bè,,, đi định cư ở nước ngoài. Và hầu hết đều thành đạt.
Lê Lai là tên vị tướng thời Lê Lợi. Khi quân Minh đang mạnh, Lê Lai đã “liều mình cứu chúa”, tự đóng giả là Lê Lợi để đánh lạc hướng quân Minh. Nhờ vậy mà Lê Lợi đã được yên ổn một thời gian để tập hợp lực lượng, nuôi quân, để đi đến ngày chiến thắng. Còn quán Cây Dừa nằm ở phố Lê Lai bây giờ, có rất nhiều người đã liều mình cứu quán, nhưng không thể cứu được quán.
Chỉ khi nào các vị lãnh đạo biết tôn trọng tình người, nhân phẩm hơn đồng tiền, chỉ khi đó, xã hội mới có đạo đức và có văn hóa.///
